Lãnh tụ và sự lãnh đạo chiến tranh Chiến_tranh_Xô-Đức

Những người lính Hoa Kỳ và Liên Xô gặp nhau trên bờ sông Elbe ngày 9 tháng 5 năm 1945

Tại Liên Xô và Đức Quốc xã ngay trong thời bình sự lãnh đạo của lãnh tụ là tập trung và cực quyền ở mức độ rất cao, trong chiến tranh mức độ cực quyền tập trung lại càng cao hơn nữa. Trong chiến tranh các tình cảm như yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý thức trách nhiệm, danh dự được gắn liền với sự trung thành vô điều kiện với mệnh lệnh của lãnh tụ.

Cả Iosif Vissarionovich StalinAdolf Hitler trên cương vị là Tổng tư lệnh tối cao là những cá nhân có tài tổ chức phi thường, có sức lôi cuốn và gây ảnh hưởng to lớn đến quần chúng, có các tính cách và ý chí cực mạnh đã có ảnh hưởng rất to lớn đến sự điều hành chiến tranh.

Adolf Hitler là nhà tư tưởng quân sự và nhà tổ chức xây dựng quân đội lớn: trước đại chiến, tư duy của Führer (lãnh tụ - tức Hitler) về hình thức và bản chất chiến tranh trong tương lai đã trùng hợp với các trí tuệ quân sự Đức. Các quyết sách cương quyết của Führer về chính trị và xây dựng lực lượng vũ trang đã góp phần đưa quân đội Đức từ một quân đội thua trận, yếu đuối, chỉ trong 6 – 7 năm đã trở thành quân đội mạnh nhất thế giới với các thắng lợi vũ bão trong thời kỳ đầu chiến tranh tại châu Âu, đánh bại quân đội các cường quốc địch thủ với hiệu suất chiến đấu rất cao, đó thực sự là cuộc cách mạng trong quân sự. Và ngay trong việc chỉ đạo trực tiếp các chiến dịch trong thời kỳ đầu Chiến tranh thế giới thứ hai cũng có dấu ấn rất tích cực của Hitler và uy tín của Führer đã được giới tướng lĩnh quân sự Đức công nhận như một thiên tài quân sự.

Tuy nhiên với cá tính bùng nổ, bản chất liều lĩnh, phiêu lưu có một không hai trong lịch sử, Hitler đã trở nên quá tự tin rằng với thiên tài của mình thì cái gì cũng có thể làm được. Sự liều lĩnh phiêu lưu có thể cho một kết quả tốt ở thời điểm nào đó, nhưng ở mức độ chính sách quốc gia và của người lãnh đạo Đế chế thì điều đó nhất định sẽ đem đến thảm hoạ. Führer coi thường cả những quy tắc lớn nhất trong chiến lược chính trị và quân sự dấn thân đồng thời chống lại tất cả các cường quốc mạnh nhất thế giới, chấp nhận chiến tranh trên nhiều mặt trận.

Hitler gắn huy chương anh dũng cho các thiếu niên Đức trong lực lượng Volkssturm (Dân binh tự vệ) ở Berlin tháng 4 năm 1945

Führer thực sự tin tưởng hoặc trở thành nạn nhân của sự tung hô sùng bái cá nhân mình và đã cho rằng mình là thiên tài quân sự số một của thế giới, các thắng lợi to lớn, dễ dàng ban đầu lại càng củng cố niềm tin của Hitler. Với bản chất độc đoán Hitler nắm lấy toàn bộ sự điều hành chiến tranh và càng ngày càng không muốn lắng nghe các ý kiến của các tướng lĩnh Đức và càng xa rời thực tế chiến trường, sa vào chủ quan duy ý chí cao độ đến mức bệnh hoạn. Kết quả là trong quá trình chiến tranh, các tướng lĩnh giỏi nhất của quân đội Đức nếu kiên quyết tỏ ý kiến đối lập với Führer thì sẽ bị sa thải hoặc không được trọng dụng. Đến giai đoạn cuối chiến tranh Hitler, đã tập hợp xung quanh mình chủ yếu là những tướng lĩnh có phẩm chất quan trọng nhất là trung thành vâng lời Führer không hạn chế.

Führer cho đến ngày cuối cùng của đế chế vì sự duy ý chí một cách bệnh hoạn nên vẫn không thể thích nghi được với thực tế là quân đội Đức đang phải chiến đấu trên thế thua, thế yếu và sắp thất bại. Bị ám ảnh bởi khả năng thay đổi thần kỳ bước ngoặt chiến tranh, Hitler ngoan cố trước sau như một chỉ có một mệnh lệnh "không lùi một bước", không muốn bỏ một tấc đất đã chiếm được, bất chấp các nguy cơ bị bao vây tiêu diệt lớn, vì vậy khi quân Đức buộc phải rút lui thì thường là quá muộn. Thậm chí gần đến ngày bại trận hoàn toàn mà Hitler vẫn trông mong vào các cuộc phản công không tưởng và không cho phép rút bỏ đất đai (một ví dụ rất điển hình là cụm tập đoàn quân Courland với vài chục vạn quân đã hoàn toàn mất hết ý nghĩa chiến đấu, bị giam chân ở mẩu đất nhỏ bắc Latvia đến hết chiến tranh trong khi đó Đức đang rất cần binh lực để phòng thủ Đế chế nhưng Hitler cương quyết từ chối di tản, đây vẫn là một điều khó hiểu của chiến tranh). Càng ngày Führer càng mất đi sự lãnh đạo sáng suốt. Nói chung từ năm 1942, sự lãnh đạo quân sự của Hitler đã mang tính tiêu cực và càng ngày càng ảnh hưởng xấu đến kết quả chiến đấu trên chiến trường của quân đội Đức.

Nguyên soái Liên Xô Joseph Stalin, Tổng thống Hoa Kỳ Harry S. Truman và Thủ tướng Anh Clement Attlee tại Hội nghị Potsdam, tháng 7 năm 1945

Lãnh tụ Stalin của Liên Xô thì lại chủ quan duy ý chí ở một khía cạnh khác. Trước và trong chiến tranh, mặc dù các kiến thức về quân sự của ông đã lạc hậu so với sự phát triển của các học thuyết chiến tranh hiện đại cũng như sự phát triển của vũ khí nhưng bằng ý chí độc đoán cố hữu, việc chỉ đạo tác chiến của ông đối với lực lượng vũ trang Liên Xô trong hai năm đầu của cuộc chiến tranh Xô-Đức đã đem lại những kết quả tiêu cực.

Trong những tháng đầu của chiến tranh, để trừng trị trách nhiệm của cá nhân trong các thất bại, và cũng để trấn áp tư tưởng chủ bại trong quân đội, Stalin dùng tòa án quân sự để trừng phạt các tướng lĩnh dưới quyền: nhiều tướng lĩnh Xô Viết đã bị xử bắn vì trách nhiệm đã để thua trận, nhất là khi tòa án quân sự được trao cho các cá nhân là cán bộ chính trị có xu hướng coi trừng phạt là một biện pháp để ổn định tình hình như Vyacheslav Mikhailovich Molotov[139], Lev Zakharovich Mekhlis[140], Georgy Maximilianovich Malenkov[141], Nikolai Alexandrovich Bulganin... Điều này đặc biệt gây hại vì nó làm mất máu đội ngũ sĩ quan hồng quân đang rất thiếu, không cho phép đội ngũ sĩ quan tích lũy kinh nghiệm qua thất bại, làm cho các cấp chỉ huy Hồng quân không dám chủ động sáng tạo, chỉ trông chờ mệnh lệnh từ trên và làm phát sinh tâm lý "nướng quân" hoàn thành nhiệm vụ bằng được với bất kỳ mức độ thương vong nào... Điển hình là đại tướng D. G. Pavlov, Tư lệnh phương diện quân Tây đã bị xử bắn về tội để mất cả Quân khu Byelorussia chỉ trong một tuần... Bắt đầu từ tháng 10 năm 1941, Stalin đã nhận thức được sự nguy hại của chính sách này nên đã từ bỏ phương pháp lãnh đạo chiến tranh kiểu "xử tướng để răn đe".

Khác xa với Hitler, Stalin sau những thất bại to lớn đã nhận thức được hạn chế của mình và đã biết dựa vào Bộ tổng tham mưu và các tướng lĩnh để điều hành chiến tranh, càng về sau sự tranh luận và bàn bạc các kế hoạch chiến đấu trong Tổng hành dinh Xô Viết về cơ bản diễn ra lành mạnh. Và với sự sắc sảo của mình Stalin đã biết tìm ra những tài năng quân sự, tin tưởng đưa họ vào các vị trí lãnh đạo quân đội thay chỗ các tướng lĩnh quân hàm cao nhưng thiếu năng lực trong thực tế chiến đấu: rất nhiều sĩ quan trẻ tài năng đã được đề bạt rất nhanh, được giao chỉ huy tập đoàn quân, phương diện quân và đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ như Hovhannes Khachaturi Bagramyan, Ivan Danilovich Chernyakhovsky, Rodion Yakovlevich Malinovsky, Fyodor Ivanovich Tolbukhin... Tuy nhiên, để tỏ rõ tiếng nói cuối cùng của Tổng Tư lệnh tối cao, Stalin thường hay can thiệp vào quá trình chỉ huy chiến đấu và nhất là hay cắt giảm thời hạn chuẩn bị chiến dịch và thời hạn hoàn thành nhiệm vụ của các phương diện quân, nhiều khi không vì các lý do quân sự mà chỉ để tạo sự kiện tuyên truyền tâm lý hứng khởi cho nhân dân (làm tròn ngày, đẹp số các chiến thắng vào dịp kỷ niệm cách mạng tháng 10, Ngày Lao động Quốc tế 1 tháng 5 hay ngày thành lập quân đội Xô Viết...) Những sự can thiệp đột xuất như vậy thường gây thêm sự mệt mỏi cho các đơn vị quân đội và tạo thêm căng thẳng không cần thiết cho các chiến trường.

Là một nhà chính trị giàu kinh nghiệm, Stalin đã có cách lãnh đạo đảng và lãnh đạo chính trị trong lực lượng vũ trang một cách hợp lý, bằng việc bỏ hệ thống hai chỉ huy của các chính uỷ và thay bằng cơ cấu các ủy viên hội đồng quân sự. Cách bố trí cán bộ chính trị như vậy đã thể hiện mặt rất tốt trong chiến tranh: cán bộ chính trị như một thành viên hội đồng quân sự cùng mang trách nhiệm và vinh quang như cán bộ chỉ huy, điều này đã gắn kết được cán bộ chính trị với tư lệnh Hồng quân trong việc nâng cao tinh thần chiến đấu và kỷ luật đảng, kỷ luật chính trị của quân đội mà không can thiệp một cách vô tổ chức vào việc chỉ huy quân đội.

Một vai trò tích cực rất to lớn của Stalin là, với kỷ luật sắt và tài tổ chức của mình, Stalin đã lãnh đạo thành công trong một thời gian rất ngắn việc di chuyển nền kinh tế từ phía tây đất nước sang vùng bên kia dãy núi Ural và nhanh chóng tổ chức lại nền công nghiệp quốc phòng. Ngay từ giữa năm 1942, nền công nghiệp này đã khôi phục và tiếp tục tăng sản lượng với tốc độ rất nhanh, cung cấp dồi dào vũ khí hiện đại cho quân đội.

Dù vào giai đoạn cuối và sau chiến tranh, bộ máy tuyên truyền Liên Xô đã phóng đại những phẩm chất quân sự của Stalin và gán cho lãnh tụ những danh hiệu lớn lao như thống soái vĩ đại nhất... Nhưng nói chung, việc tuyên truyền phẩm chất của lãnh đạo là yêu cầu bắt buộc trong chiến tranh, và càng ngày sự lãnh đạo chiến tranh của lãnh tụ Stalin càng hợp lý, đáp ứng được các đòi hỏi khắc nghiệt của chiến tranh; và sự lãnh đạo hiệu quả của Stalin cũng được xem như một trong những nhân tố góp phần vào thắng lợi của Liên Xô đối với Đức Quốc xã.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến_tranh_Xô-Đức http://www.amazon.com/Struggle-Europe-Turbulent-Co... http://www.axishistory.com/index.php?id=3631 http://www.borodulincollection.com/war/index.htm http://cgsc.cdmhost.com/cgi-bin/showfile.exe?CISOR... http://www.feldgrau.com/WW2-Germany-Soviet-Militar... http://books.google.com/books?id=00fCzJKt1QMC&pg=P... http://www.history.com/news/history-lists/8-things... http://opoccuu.com/m3-lee.htm http://www.time.com/time/printout/0,8816,791211,00... http://ww2stats.com/cas_ger_var_wvw.html